Bệnh Dại (Rabies) là bệnh lây truyền giữa động vật và người. Đây là bệnh truyền nhiễm cấp tính ở động vật máu nóng gây ra do vi rút Lyssa và Vesiculo thuộc họ Rhabdoviridae. Vi rút dại xâm nhập vào cơ thể qua các vết cắn, vết liếm, vết cào, da, niêm mạc bị tổn thương, được nhân lên và hướng tới hệ thần kinh, phá hủy mô thần kinh, gây nên những kích động điên dại và kết thúc bằng cái chết. Theo thống kê của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh, năm 2021, toàn tỉnh có 3 người tử vong do bệnh dại tại Đầm Hà, Hải Hà và Móng Cái. Điều này cho thấy công tác phòng, chống bệnh dại trên người và động vật cần được ưu tiên, nhất là khi bước vào mùa hè nắng nóng – thời điểm bệnh này ở động vật truyền bệnh gia tăng.
Điều đáng nói là cả các trường hợp này đều không đi tiêm phòng vaccine dại sau khi bị chó cắn hoặc có đi tiêm khi bệnh đã có tiến triển cách đó nhiều ngày.
* Mức độ nguy hiểm của bệnh dại
Hiện nay theo các thống kê 100% các trường hợp mắc bệnh dại do virus dại cổ điển đều tử vong mà chưa có biện pháp điều trị. Cho đến nay trên thế giới mới chỉ ghi nhận bảy trường hợp bệnh nhân sống sót sau khi được chăm sóc tích cực. Phần lớn các trường hợp này đã được tiêm vắc xin dự phòng trước phơi nhiễm nên có thể đã làm thay đổi diễn biến của bệnh. Duy nhất một trường hợp người mắc bệnh do bị dơi cắn dù không được tiêm vắc xin dự phòng trước phơi nhiễm nhưng vẫn sống sót. Tuy vậy, trường hợp này không phải do vi rút dại cổ điển gây ra. Và cũng chưa có trường hợp nào ghi nhận là dùng thuốc nam hay các loại dược liệu điều trị thành công bệnh dại được báo cáo. Do đó, người dân không nên tin vào quảng cáo của những người bán thuốc này.
* Các dấu hiệu cơ bản để nhận biết bệnh Dại
Thời gian ủ bệnh ở động vật có thể kéo dài từ vài ngày đến vài tháng, có thể lâu hơn, nhưng trước 10 ngày phát bệnh, vi rút có thể gây nhiễm cho người và động vật khác. Vi rút dại có nhiều trong nước bọt của chó, mèo và động vật mắc bệnh, kể cả khi con vật chưa có dấu hiệu lâm sàng.
Nguồn mang mầm bệnh chủ yếu là chó (trên 90%), mèo nuôi và động vật hoang dã như chó sói, chó rừng, ngoài ra còn ở mèo, chồn, cầy, cáo và một số loài động vật có vú khác như gấu trúc, dơi hút máu, dơi ăn sâu bọ.Vi rút xâm nhập qua các vết cắn, vết liếm, vết cào, da, niêm mạc bị tổn thương, vết thương hở.
Chúng ta có thể nhận biết được chó, mèo bị bệnh Dại thông qua các triệu chứng lâm sàng của chúng, thường được chia làm 02 thể là thể dại điên cuồng và thể dại câm (bại liệt). Trong thực tế, nhiều con chó mắc bệnh dại biểu hiện cả 2 thể này, thời gian đầu có biểu hiện điên cuồng, bị kích động rồi sau đó chuyển sang dạng bị ức chế và bại liệt.
– Thể dại điên cuồng: được chia làm 3 thời kỳ :
+ Thời kỳ tiền lâm sàng: Chó bị dại có dấu hiệu khác thường như trốn vào góc tối, kín đáo, đến gần chủ miễn cưỡng hoặc trái lại, tỏ ra vồn vã thái quá, thỉnh thoảng sủa vu vơ, tru lên từng hồi; hoặc bồn chồn, nhảy lên đớp không khí.
+ Thời kỳ điên cuồng: Các phản xạ vận động bị kích thích mạnh, cắn sủa người lạ dữ dội, quá vồ vập khi chủ gọi, chỉ cần có tiếng động nhẹ cũng nhảy lên sủa từng hồi dài. Chó bỏ ăn, nuốt khó, sốt, dãn đồng tử, con vật có biểu hiện khát nước, muốn uống nhưng không nuốt được; chó bắt đầu chảy nước dãi, sùi bọt mép, tỏ vẻ bồn chồn, cảnh giác, sợ sệt, cắn vu vơ, hay giật mình, đi lại không có chủ định, trở nên dữ tợn, điên cuồng (2-3 ngày sau khi phát bệnh). Con vật bỏ nhà ra đi và thường không trở về; trên đường đi, gặp vật gì lạ nó cũng cắn gặm, ăn bừa bãi, tấn công chó khác, kể cả người.
+ Thời kỳ bại liệt: Chó bị liệt, không nuốt được thức ăn, nước uống, liệt hàm dưới và lưỡi nên trễ hàm, thè lưỡi ra ngoài, nước dãi chảy ra, chân sau liệt ngày càng rõ; chó chết trong khoảng từ 3-7 ngày sau khi có triệu chứng đầu tiên, do liệt cơ hô hấp và do kiệt sức vì không ăn uống được. Thể dại điên cuồng chỉ chiếm khoảng 1/4 các trường hợp chó dại, số còn lại là thể dại câm.
– Thể dại câm: Là dạng bệnh không có các biểu hiện lên cơn dại điên cuồng như thường thấy; chó chỉ có biểu hiện buồn rầu. Con vật có thể bị bại ở một phần cơ thể, nửa người hoặc 2 chân sau, nhưng thường là liệt cơ hàm, hàm trễ xuống, lưỡi thè ra; nước dãi chảy lòng thòng, con vật không cắn, sủa được, chỉ gầm gừ trong họng. Quá trình này tiến triển từ 2-3 ngày. Nhìn chung, thể dại câm tiến triển nhanh hơn thể dại điên cuồng, thông thường chỉ từ 2-3 ngày vì hành tuỷ của con vật bệnh bị vi rút tác động làm rối loạn hệ tuần hoàn và hô hấp sớm hơn.
Mèo ít bị mắc dại hơn chó, bệnh dại ở mèo cũng tiến triển như ở chó, mèo hay núp mình vào chỗ vắng hoặc hay kêu, bồn chồn như khi động dục; khi người chạm vào thì nó cắn mạnh và hăng, tạo vết thương sâu.
* Biện pháp phòng bệnh Dại cho chó, mèo nuôi
Để phòng bệnh Dại, cần phải quản lý chặt chẽ việc nuôi chó, mèo và tiêm vắc xin phòng bệnh Dại cho đàn chó, mèo nuôi đạt tỷ lệ bảo hộ (trên 85% tổng đàn).
a, Phòng bệnh bắt buộc bằng tiêm vắc xin dại
– Đối tượng tiêm phòng bắt buộc: Chó, mèo.
– Thời gian tiêm phòng: Hàng năm triển khai chiến dịch tiêm phòng đợt chính vào tháng 3-4. Ngoài ra, phải thường xuyên tiêm phòng bổ sung cho đàn chó, mèo mới phát sinh hoặc chó, mèo đã hết thời gian miễn dịch bảo hộ. Liều lượng, cách sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất vắc xin.
– Ủy ban nhân dân phường, xã có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý chuyên ngành thú y địa phương để tổ chức tiêm phòng vắc xin Dại cho chó, mèo trên địa bàn. Trong vòng 07 ngày trước đợt tiêm phòng và trong thời gian triển khai tiêm phòng, Ủy ban nhân dân phường, xã phải thông báo hằng ngày trên các phương tiện truyền thông cho cộng đồng dân cư trên địa bàn về địa điểm và ngày tiêm phòng.
– Cơ quan quản lý chuyên ngành thú y địa phương hướng dẫn cụ thể việc tiêm phòng vắc xin Dại trên địa bàn, thực hiện, giám sát việc tiêm phòng và cấp Giấy chứng nhận tiêm phòng bệnh Dại cho chủ vật nuôi có chó, mèo đã được tiêm phòng vắc xin Dại.
b) Quản lý chó, mèo nuôi để phòng bệnh Dại
– Đối với chủ nuôi chó, mèo (gọi chung là chủ vật nuôi):
+ Phải đăng ký việc nuôi chó, mèo với Ủy ban nhân dân phường, xã theo quy định của pháp luật.
+ Xích, nhốt hoặc giữ chó trong khuôn viên gia đình; bảo đảm vệ sinh môi trường. Khi đưa chó ra nơi công cộng phải bảo đảm an toàn cho người xung quanh bằng cách đeo rọ mõm cho chó hoặc xích giữ chó và có người dắt.
+ Chấp hành tiêm vắc xin phòng bệnh Dại cho chó, mèo theo quy định; Chịu mọi chi phí trong trường hợp có chó thả rông bị bắt giữ, kể cả chi phí cho việc nuôi dưỡng và tiêu hủy chó. Trường hợp chó, mèo cắn, cào người thì chủ vật nuôi phải bồi thường vật chất cho người bị hại theo quy định của pháp luật.
* Xử trí khi bị động vật cắn để phòng bệnh dại
– Đối với vết thương:
+ Vết thương cần được rửa và dội ngay lập tức với xà phòng và nước trong thời gian khoảng 10-15 phút. Nếu không có xà phòng, có thể rửa bằng nước. Đây là phương pháp sơ cứu hiệu quả nhất để chống lại bệnh dại.
+ Vết thương cần được rửa kỹ với cồn 70% hoặc cồn i-ốt, nếu có.
+ Đưa ngay bệnh nhân đến cơ sở y tế để điều trị càng sớm càng tốt.
– Tránh:
+ Sử dụng các chất kích thích vào vết thương như ớt bột, nước ép hoặc nhựa cây, axit hoặc kiềm.
+ Băng bó, đắp thuốc kín vết thương
– Đối với con vật cắn: Cần nuôi nhốt, theo dõi sát động vật gây ra vết thương ít nhất 10 ngày. Tuy nhiên không trì hoãn việc điều trị dự phòng trong thời gian theo dõi này.